|
CHUYÊN ĐỀ NĂM 2025 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, |
Tháng 7/2025 |
TƯ TƯỞNG, QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG BẰNG XÃ HỘI |
Đảng viên |
NGUYỄN HƯƠNG THẢO |
Chi bộ |
NGHIỆP VỤ 2 |
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội được kế thừa và phát triển từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về một xã hội tiến bộ, với mục tiêu giải phóng và phát triển toàn diện con người, cũng như hướng đến những giá trị về bình đẳng, tự do, dân chủ. Đặc biệt, tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, mà cốt lõi là ở quan điểm công bằng về cơ hội phát triển vẫn giữ nguyên giá trị và có vai trò định hướng quan trọng để chúng ta phấn đấu thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội được hình thành và phát triển gắn liền với mục tiêu giải phóng dân tộc, giành lại cho nhân dân Việt Nam quyền sống đích thực của con người; đồng thời, góp phần cùng nhân loại tiến bộ trong cuộc đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tự do, bình đẳng và tiến bộ của cả xã hội loài người. Bởi vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh về công bằng xã hội, mà cốt lõi là quan điểm công bằng về cơ hội phát triển, không chỉ là tiền đề tạo ra cơ hội và động lực phát triển cho mỗi con người, mà cho cả dân tộc Việt Nam nói riêng, các dân tộc thế giới nói chung. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn mạnh: “Chẳng những Việt Nam phải đấu tranh giành lấy độc lập dân tộc cho chính mình, mà còn phải gánh vác trách nhiệm một phần trong sự nghiệp mưu cầu hòa bình cho toàn thế giới”.
Khi nói đến công bằng xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường gắn với bình đẳng xã hội, mà trước hết là “bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”; song, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ thực chất là công bằng về cơ hội phát triển. Với quan niệm như vậy, Người yêu cầu tất cả những người lao động ngày nay đều phải nhận thức rõ mình là người chủ nước nhà và đã có quyền hạn làm chủ, thì phải làm trọn nghĩa vụ của người chủ - đó là cần kiệm xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, nhằm mục đích không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân, trước hết là của nhân dân lao động.
Trong giáo dục đại học công bằng xã hội thể hiện ở việc mọi người dân được tạo điều kiện học tập không phân biệt vùng miền, dân tộc, tôn giáo, tình hình kinh tế… Đồng thời, Nhà nước xây dựng những chủ trương, chính sách để tạo ra nhiều cơ hội học tập cho người dân để có thể phát huy khả năng, sở trường của mọi công dân, đặc biệt là giúp đỡ người nghèo được học tập, bảo đảm người giỏi được phát triển được tài năng. Như vậy, công bằng xã hội trong giáo dục được thể hiện qua một số nội dung sau:
Một là, công bằng xã hội trong giáo dục đại học là không có sự phân biệt giới tính, dân tộc và đẳng cấp trong việc hưởng thụ nền giáo dục, mọi người dân đều được hưởng giá trị từ nền giáo dục đem lại: “một nền giáo dục thống nhất cho tất cả mọi người, tiến hành cho đến lứa tuổi mà người ra có thể trở thành một thành viên độc lập của xã hội”.
Hai là, công bằng xã hội trong giáo dục đại học là phải bảo đảm được phương pháp và nội dung cho từng đối tượng, lứa tuổi. Mỗi người đều có cách tiếp cận cũng như nhận thức khác nhau. Nhà nước có những chủ trương, chính sách cụ thể để nâng cao tri thức của họ dựa trên khả năng hiện tại của họ, thiết kế chương trình giáo dục cho phù hợp với từng đối tượng là yếu tố quan trọng để bảo đảm được sự công bằng trong học tập.
Ba là, Nhà nước thực hiện những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm công bằng trong giáo dục. Xác định rõ đầu tư cho giáo dục là quốc sách hàng đầu, Nhà nước thực hiện nhiều biện pháp để thu hẹp khoảng cách bất bình đẳng trong giáo dục. Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục là đào tạo nhân lực, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.
Những năm qua, nhằm thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục đại học, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách khuyến khích và hỗ trợ để mọi người dân có nhu cầu có thể được học tập và nâng cao trình độ. Đảng và Nhà nước cũng có những chủ trương, chính sách cho sinh viên các gói vay vốn học tập với những lãi suất thấp tại ngân hàng. Cùng với đó, các trường đại học đều có những chính sách hỗ trợ, ưu đãi, như: học bổng cho sinh viên xuất sắc, hỗ trợ cho sinh viên có hoàn cảnh khó khăn… góp phần giảm áp lực tài chính cho sinh viên và gia đình.
Đảng và Nhà nước cũng có các chính sách nhằm hỗ trợ các đối tượng sinh viên là người dân tộc thiểu số, sinh viên là người khuyết tật, như: cộng điểm vùng miền, chính sách về học bổng… và còn có những chính sách ưu tiên cử tuyển, tuyển thẳng đối với học sinh đạt kết quả học tập cao, tuyển sinh dự bị đại học, nhiều chính sách giúp cho sinh viên dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa cũng được đi học, được tiếp cận nền giáo dục tốt như những sinh viên khác.
Cùng với các chính sách hỗ trợ thì các cơ sở giáo dục đại học đã chủ động và tích cực đổi mới nội dung cũng như phương pháp giảng dạy, lấy người học làm trung tâm, đặc biệt quan tâm đến năng lực ngoại ngữ, các kỹ năng mềm, lý luận luôn gắn liền với thực hành, thực tiễn giúp sinh viên tích lũy được kiến thức, kinh nghiệm, phát triển năng khiếu và tính sáng tạo cũng như từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Một số trường đại học đã chú trọng phát triển chương trình đào tạo theo chuẩn quốc tế và liên kết quốc tế nâng cao chất lượng đào tạo, đầu tư công nghệ thông tin, cơ sở vật chất, xây dựng học liệu điện tử đa dạng, phong phú nhằm hỗ trợ người học và người dạy.